Lễ hội truyền thống ở vùng đồng bằng và trung du Nghệ An

Lễ hội đền Quả Sơn

Đây là lễ hội vùng lớn vào loại bậc nhất ở Nghệ An. Lễ hội được diễn ra trong 3 ngày 19, 20 và 21 tháng giêng âm lịch hàng năm để tưởng nhớ tới công đức của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – vị danh tướng, danh thần của vương triều Lý đã có công lớn trong việc bảo quốc an dân, củng cố nền độc lập, thông nhất đất nước ở thế ký XI.

Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội.

Phần Lễ:Ngày 19 làm lễ yết cáo. Ngày 20 là chính hội, buổi sáng làm lễ rước thần từ đền quả đến đền Bà Bụt, buổi chiều có lễ tạ ơn Bà Bụt. Ngày 21, buổi sáng làm lễ rước xuôi từ chùa bà Bụt về đền, buổi chiều có lễ yên vị.

Phần Hội:Diễn ra từ sáng ngày 20 đến chiều ngày 21 tháng giêng âm lịch. Các trò chơi dân gian: Đáng đu tiên, chọi gà, cờ thẻ, cờ người, đấu vật, múa võ, đặc sắc nhất là đua thuyền bơi chải xuôi ngược dòng Lam, hát chầu văn, ca trù, diễn các tích chèo, tuồng cổ…

Ngày nay, ngoài các trò chơi dân gian và nghệ thuật dân tộc, còn tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục , thể thao như : Biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, cắm trại, triển lãm, trưng bày bán các loại ấn phẩm văn hoá, tổ chức thi đấu bóng đá, bóng chuyền, đi tham quan các di tích danh thắng trong vùng.

Lễ hội đền Đức Hoàng

Tổ chức vào ngày 30/1 và 1/2 âm lịch hàng năm, tại xã Phúc Thành (huyện Yên Thành, Nghệ An), để tưởng nhớ công lao của Hoàng Tá Thốn.

Theo các sử liệu, Hoàng Tá Thốn không những có tài thao lược mà còn có công lớn trong việc chiêu dân, mở đất, lập làng... nên được nhân dân nhiều địa phương tôn làm Thành hoàng.

Văn bia và phả tộc họ Hoàng (ở Vạn Tràng) ghi chép: Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn sinh năm Giáp Dần (1254) vào đời vua Trần Thái Tông, ở làng Vạn Phần, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Lịch sử ghi lại, đời vua Trần Nhân Tông, năm Mậu Tý (1288), tướng nhà Nguyên - Mông là Thoát Hoan và Ô Mã Nhi đem quân sang xâm lư­ợc nước ta. Tư­ớng quân Hoàng Tá Thốn được cấp ấn phù, thống lĩnh hàng vạn quân cùng tàu thuyền phục kích ở sông Bạch Đằng để đại phá quân giặc.... Dưới tài tổng chỉ huy của Trần Hưng Đạo, trận đánh diễn ra ác liệt, quân ta đại thắng, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Vua Trần Nhân Tông phong cho Hoàng Tá Thốn là “Sát Hải Chàng Lại Đại T­ướng Quân”. Là vị tướng có dũng khí, trí thông minh và nhiều mư­u l­ược, có công với dân với nước nên sau khi ông mất, triều đình cho lập đền thờ ở nhiều nơi, trong đó có đền Đức Hoàng, xã Phúc Thành huyện Yên Thành. Năm 2000, Đền Đức Hoàng được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Lễ hội đền Đức Hoàng gồm hai phần:

Phần lễ được tổ chức với các nội dung: lễ khai quang, lễ yết cáo, lễ rước, lễ tế thần, lễ tạ và lễ hoa đăng (lễ cáo từ).

Phần hội nhiều hoạt động phong phú gồm: biểu diễn văn nghệ quần chúng, thi đấu bóng chuyền nam, nữ, đấu vật tự do toàn huyện, thi người đẹp đền Hoàng; các trò chơi dân gian như kéo co, đánh đu, chọi gà, đua thuyền, nấu cơm, bắt cá; các trò chơi hiện đại như mô tô bay, điện tử, xe điện dụng, nhà hơi siêu nhân, xe tàu điện cùng nhiều hoạt động khác.

Lễ hội là dịp để bà con nhân dân địa phương và du khách gần xa tưởng nhớ công đức của Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn - người có công đánh đuổi giặc Nguyên - Mông, đem lại thái bình cho đất nước.

 

Hội Thanh Đàm

Tổ chức từ ngày 15 - 18/2 âm lịch hàng năm, tại làng Thanh Đàm, xã Nam Tân, huyện Nam Đàn. Hội được tổ chức nhằm suy tôn Thủy thần với phần Rước và thả hến độc đáo.Đình Thanh Đàm thuộc làng Thanh Đàm, xã Nam Tân huyện Nam Đàn (Nghệ An), cách thành phố Vinh 30 km về phía Tây Nam. Ngôi làng này gần sông Lam.Đình được xây dựng vào năm 1899 (mùa đông năm Kỷ Hợi) và hoàn thành cuối năm 1900. Đình ngoảnh mặt hướng Đông - Nam, theo các cụ cao tuổi trong làng cho biết, đó là hướng càn tốn. Đình Thanh Đàm thờ Đức Ông sông nước. Di tích nằm trong khuôn viên rộng 1 ha, phía trước có 2 cây cổ thụ cành lá xum xuê. Cổng đình có 2 cột quyết, trên có hai con nghê chầu lại, phía trong có 2 con voi, 2 ông tướng, có bức nghi môn, được đắp nổi hình hổ phù.

Đình Thanh Đàm có 5 gian, dài 21m, rộng 5m, 21 cột gỗ lim ròng, trong đó 12 cột cao 4,5m, cột thấp 3,2m. Trên nóc đình đắp nổi hình hương long triều nguyệt, 4 mái cong vút, tạo cho ngôi đình thêm uy nghi. Đình lợp ngói múi hài, phía trong mỗi cột gỗ có kê một chân đá tảng (đá xanh) được đẽo tạc công phu.Thợ làm đình là thợ mộc Thái Yên (2 tốp thợ). Nghệ thuật kiến trúc đình khá đẹp, trong đình có 10 kẻ, ở hai đầu hồi được khắc hình hoa lá, chim thú; 4 đầu rồng ở 2 vì giữa, hai vì phía nam có hình rồng ngậm ngọc, hai vì phía bắc rồng dương vi dữ tợn. Các cụ kể rằng 4 con rồng, do hai tốp thợ bí mật làm.Ba hôm sau họ dựng lên các vì kèo, thì tốp thợ có chạm hình rồng ngậm ngọc thắng cuộc, được hội đồng bô lão thưởng 10 quan tiền đồng. 

Lễ hội Đền Bạch Mã

Tổ chức từ ngày 9 đến 10-2 âm lịch hàng năm, tại huyện Thanh Chương. Đền Bạch Mã là 1 trong 4 ngôi đền linh thiêng nhất xứ Nghệ.

Đền Bạch Mã thờ vị anh hùng Phan Đà, người thôn Chí Linh, xã Võ Liệt. Phan Đàn xuất thân trong gia đình làm nghề chài lưới ven sông Lam. Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, tuổi trẻ là người thông minh nhanh nhẹn được bạn bè mến phục. Đất nước gặp họa ngoại xâm, năm 1424 ông gia nhập nghĩa quân Lê Lợi chịu trách nhiệm trong việc móc nối, dò la tin tức và chặn đánh các mũi tiến công của địch, lập nhiều chiến công lớn được Bình Định vương Lê Lợi khen là kỳ đồng (tuổi trẻ có tài kỳ lạ). Trong 1 lần do la tin tức của địch, ông bị phát hiện và bị đánh trọng thương và khi về đến căn cứ thì trút hơi thở cuối cùng.

Theo sử cũ, Phan Đà đã nhiều lần linh ứng cứu giúp nhân dân tai qua nạn khỏi, dịch bệnh, phù trợ các triều đại phong kiến đánh thắng kẻ thù. Để tưởng nhớ vị tướng trẻ tài ba, dũng mãnh, sau thắng lợi kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi đã cho xây dựng đền đài làm nơi thờ cúng và phong sắc Đô Thiên Đại Đế Bạch Mã Thượng Đẳng Phúc Thần và cúng tế hàng năm.

Từ năm 2001 đến nay, lễ hội Đền Bạch mã được khôi phục và được tổ chức long trọng vào 2 ngày 9, 10/ 2 âm lịch. Hoạt động của lễ hội đã thu hút đông đảo nhân dân và du khách hập phương thăm viếng, thưởng ngoạn. Lễ hội gồm 2 phần:

Phần Lễ bao gồm: Lễ Dâng hương tại phần mộ Phan Đà, tại Phủ Ngoại; Lễ rước từ Đền Bạch Mã; Lễ yết cáo; Lễ tế thần; Lễ tạ.

Phần Hội: Tổ chức hoạt động văn nghệ, sinh hoạt thơ, bình thơ; tổ chức thi văn nghệ quần chúng và thi người đẹp. Ngoài ra tổ chức các giải thể thao và trò chơi dân gian như: bóng chuyền thanh niên khối THPT, vật cù, cờ thẻ, kéo co nữ, chọi gà…

Lễ hội vật cù ở Thanh Chương

Tương truyền hội vật cù ở đây có từ khoảng đầu thế kỷ 15. Bắt nguồn từ việc chọn những lực sĩ khỏe mạnh, nhanh nhẹn để sung vào đội quân của tướng Phan Đàn - một võ tướng của vua Lê Thái Tổ, coi việc quân ở vùng này, dần dà hội vật cù trở thành một sinh hoạt mang tính hội lễ đậm nét dân gian được mọi người ưa thích và phổ biến, đi vào đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào vùng Thanh Chương, Đô Lương, Nam Đàn, mà sôi nổi, náo nhiệt hơn cả là ở những vùng dọc hai bờ sông Găng (một nhánh của sông Lam) - Thanh Chương, nơi được xem là xuất xứ của trò chơi này.Người ta tổ chức thi vật cù giữa các làng xã, thời gian mỗi cuộc chơi không qui định cụ thể, số người tham gia mỗi bên cũng không hạn chế. Có khi hội vật cù lên đến đỉnh điểm, đàn ông trai tráng trong làng đều hăng hái vào cuộc không kể tuổi tác, lúc ấy thường là vào dịp Tết Nguyên đán.

Trước ngày vào hội, người ta đã lựa tìm những gốc chuối, đặc biệt thích hợp là gốc chuối hột loại lớn, đào lên lấy củ. Dùng dao sắc đẽo củ chuối thành hình tròn có đường kính cữ 30cm, trọng lượng 5 - 7kg là có quả cù đảm bảo yêu cầu. Quả cù phải sạch nhựa và có độ dẻo cần thiết, bởi nó thường xuyên bị giành giật, quăng ném mạnh dễ vỡ trong khi chơi. Vì vậy, quả cù sau khi lược đẽo xong, được luộc qua nước sôi, vớt ra phơi nắng khá kỹ. Lúc này quả cù có màu sẫm và rất dẻo, không bị nứt vỡ khi chơi. Sân chơi cù thường là những sân cát bên bờ sông hay trong làng, chiều dài độ 50m, ngang độ 25m. Có ba hình thức chơi củ: cù gôn, cù đẩy và củ nước. Cả ba lối chơi này đều có chung hình thức tính điểm và bố trí giống nhau, ở hai đầu sân của mỗi bên là hai chiếc sọt đan bằng nan tre, nứa cao 1,5m, đường kính 50cm (cù gôn, củ nước), hay đào một hố sâu rộng 50 x 50cm (cù đẩy). Bên nào giành và đưa được cù vào sọt (hay vào hố) của đối phương được một điềm. Để đưa được quả cù vào đích cũng không phải dễ dàng gì bởi phải giành giật, tranh cướp quyết liệt, bên nào cũng tìm mọi cách nhằm cản phá đối phương đưa cù vào sọt (hố) của mình. Hội vật cù vì thế rất sôi nổi, hào hứng, cuốn hút mọi người dự khán.
Ở cù gôn, khi vào cuộc hai bên dàn đội hình ngay giữa sân, quả cù đặt dưới đất; có hiệu lệnh của người cầm trịch (trọng tài) , hai bên bắt đầu vào cuộc tranh cướp, giành giật chuyền nhau . . . Ở cù đẩy, quả cù được chôn sâu dưới cát giữa sân, khi có hiệu lệnh hai bên tranh nhau đào moi lấy cù bằng tay không. Lúc một trong hai bên đã có cù, các cầu thủ của hai đội đứng sau đội trưởng - người cầm cù – và bắt đầu dùng sức đẩy thông qua quả cù . Bên nào qua lần đẩy này tỏ ra mạnh hơn làm cho bên đối phương phải lùi sẽ giành được quyền ôm cù, ngay sau đó rất nhanh và khéo léo chạy chuyền cù cho nhau để đưa cù tới đích.

Đặc biệt vui và hào hứng lối chơi cù nước. Sân chơi cù nước là một bãi cát ngập nước sâu độ 30 - 40cm ven sông, quả cù được chôn sâu dưới cát ngập nước; khai cuộc cả hai đội dầm mình trong nước tranh nhau moi quả cù sau đó vừa chạy vừa lội với quả cù to nặng, vừa phải luồn lách qua đối phương đang tìm mọi cách đề giành giật quả cù. Người tham gia vật cù đều cởi trần đóng khố. Đề phân biệt người của hai đội, ban tổ chức qui định rnàu sắc của khố hay dải khăn màu vấn trên đầu. Tuy từ xưa không có một điều luật cụ thể, nhưng trong hội vật cù không hề có lối chơi thô bạo, ác ý. Rất quyết liệt nhưng cũng rất trong sáng. Kết thúc cuộc chơi, đội nào có số lần đưa cù vào đích của đối phương nhiều hơn là đội thắng. Giải thướng chỉ mang tính tượng trưng, danh dự. Ở hội cù, người các làng xem và cổ vũ rất đông, hò reo, đánh trống chiêng cuồng nhiệt cổ vũ cho đội nhà và tán thưởng những đường chạy cù ngoạn mục... Ai đã một lần được xem hôi vật cù ở Thanh Chương hẳn sẽ vô cùng thích thú.

Lễ hội đền Cuông

Theo truyền thuyết,lễ hội đền Cuông (đền Công) không chỉ là dịp cầu phúc cầu tài mà còn là dịp để lòng người ghi dấu đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu chạy trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại. Lễ hội Đền Cuông chính thức ra đời từ năm 1993, còn trước đó nó chỉ tồn tại dưới hình thức lễ tế thần.

Phần lễ của lễ hội đền Cuông bao gồm năm lễ: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ đại và lễ tạ. Ngoài ra, còn có thêm lễ túc trực. Khi tham gia lễ, các vị trong ban hành lễ sẽ mặc lễ phục theo quy định.

Lễ khai quang là lễ diễn ra đầu tiên trong lễ hội đền Cuông. Lễ được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm. Nội dung của phần lễ là dâng hương xin các vị về trời để nhân dân làm công tác don dẹp đền chuẩn bị cho lễ hội sắp tới.

Lễ cáo trung thiên được tổ chức sau khi kết thúc công việc dọn dẹp. Lễ diễn ra khá đơn giản và nhanh chóng. Nội dung của lễ là báo với các vị công việc dọn dẹp đền đã hoàn thành, mời các vị về đền tham dự lễ hội và lắng nghe những nguyện vọng, mong ước và chứng giám cho lòng thành kính của nhân dân.

Lễ yết là lễ thứ ba trong phần lễ và cũng là lễ có tính chất mở đầu lễ hội đền Cuông. Lễ được diễn ra vào chiều tối ngày 14 tháng 2 âm lịch.Theo đúng thông lệ, lễ phải diễn ra vào tối khuya khoảng 22 giờ trở đi nhưng do yêu cầu hành lễ của bà con nên lễ được tiến hành sớm hơn, vào khoảng 17h chiều ngày 14 tháng 2 âm lịch. Lễ yết gồm 6 bước được tiến hành qua 35 lần xướng trong đó chỉ có một lần xướng ở mỗi bước. Nội dung của lễ yết là xin phép các vị cho mở lễ và mời các ngài về dự lễ

Lễ rước kiệu bao gồm ba phần: Lễ rước vua và công chúa vi hành, lễ rước kiệu từ nhà thờ họ Cao và đình Xuân Ái về đền Cuông, lễ rước kiệu về nhà thờ họ Cao( nơi thờ tướng quân Cao Lỗ, một vị tướng tài ba trong thời đại An Dương Vương có công chế tạo ra nỏ thần). Lễ rước vua và công chúa vi hành là bước đầu tiên trong quá trình diễn ra lễ rước kiệu. Lễ diễn ra khoảng vào 11 giờ tối ngày 14 tháng 2 âm lịch. Việc đầu tiên trong quá trình diễn ra lễ là phải làm lễ xin vua và công chúa cho phép nhân dân được mang linh vị lên kiệu để đưa về đình Xuân Ái phục vụ cho lễ rước kiệu ngày mai. Sau đó rước vua và công chúa về đình Xuân Ái cách đền khoảng 2km. Tương truyền, đình Xuân Aí được nhân dân xây dựng để tưởng nhớ công ơn của vua An Dương Vương và đình được xây dựng trước đền vì theo quan niệm dân gian đền chỉ là nơi ngài ngự còn đình mới là nơi ngài về với dân. Cũng do quan niệm đó nên khi diễn ra lễ hội phải rước ngài từ đình ra đền để làm lễ, cho nhân dân cầu nguyện.

Lễ rước kiệu từ nhà thờ họ Cao và đình Xuân Ái về đền Cuông bắt đàu từ sáng sớm ngày 15/2. Đi đầu đám rước là cờ lễ của cả đình và nhà thờ, ban âm nhạc, tiếp đến là kiệu của vua, sau đó là kiệu của công chúa Mỵ Châu, và tiếp theo nữa là kiệu của tướng Cao Lỗ. Khi kiệu về đến đền, cửa chính của tam quan sẽ được mở ra để cho đoàn rước kiệu đi vào. Kiệu được đặt ở sân trước bái đường để chuẩn bị làm lễ.

 Đại lễ tại đền là lễ chính trong phần lễ của lễ hội đền Cuông, đây là lễ lớn nhất, kéo dài nhất và đông người tham gia nhất. Lễ đại diễn ra vào sáng ngày 15 tháng 2 âm lịch. Buổi lễ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa ông đông xướng, tây xướng, những nhạc công, và những người hành lễ. Kết thúc phần hành lễ của ban hành lễ, cũng như trong lễ yết là phần dâng hương. Đầu tiên, đại diện của các ban ngành mỗi người cầm một que hương lên thắp. Sau đó cửa tam quan được mở để cho nhân dân lên dâng hương.Sau khi làm xong lễ, kiệu của vua và công chúa được vào tả vu.

Lễ tất diễn ra vào 16 tháng 2 âm lịch.Lễ tất được tiến hành rất đơn giản. Nội dung của lễ là cảm ơn các vị đã về dự lễ. Sau lễ kết thúc, tất cả lễ vật trên bàn thờ được hạ xuống để mọi người hưởng lộc vua ban. Sau lễ tất, phần lễ của lễ hội coi như kết thúc nhưng phần hội còn kéo dài cho đền hết ngày 16 mới kết thúc

 Lễ hội đền Vua Mai

Lễ hội Vua Mai là lễ hội vùng của tỉnh Nghệ An, lễ hội được tổ chức theo quy mô vừa nhưng vẫn mang những nghi thức chung như nhiều nơi trong tỉnh và cả nước: lễ tế, rước kiệu, đua thuyền, hội vật…

Phần lễ: diễn ra trong 3 ngày.

•  Ngày 13/1: Lễ khai quang tại mộ, đền thờ và mộ thân mẫu Vua Mai.

•  Ngày 14/1: Lễ yết cáo tại khu mộ, đền thờ và mộ thân mẫu Vua Mai.

•  Ngày 15/1: Đại tế.

Buổi sáng: Các làng trong vùng rước kiệu về Đền Vua Mai để hội tế theo nghi lễ của Triều đình.

Buổi chiều: Lễ dâng hương tại mộ và lễ tạ tại đền.  

Phần hội:  Diễn ra trong 3 ngày từ 14, 15, 16 tháng 1 âm lịch.

Các trò chơi dân gian xưa: Đấu vật, đua thuyền, hát văn, hát đối, hát ví, đánh đu, leo cột mỡ, đi cà kheo, cướp cờ, đánh cờ….trong đó đua thuyền là vui vẻ và độc đáo nhất còn các trò chơi như đấu vật, hát đối, đánh đu là kéo dài ngày nhất.

Hiện nay, ngoài các trò chơi dân gian còn có các hoạt động văn hoá, văn nghệ – thể thao khác như: múa, hát, chiếu phim, triển lãm các chuyên đề lưu động, bóng đá, bóng chuyền; tổ chức tham quan các di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh ở quanh khu vực lễ hội như di tích Kim Liên, Di tích tưởng niệm cụ Phan Bội Châu, mộ đồng chí Lê Hồng Phong, Khe Bò Đái, Bến Sa Nam…

Thông qua lễ hội, các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh thiếu niên sẽ hiểu rõ được cội nguồn của dân tộc, công lao đức độ của Vua Mai cùng các tướng lĩnh của ông. Các giá trị truyền thống như yêu nước, đoàn kết cộng đồng, hiếu học đã được nhắc lại và trao quyền cho các thế hệ trẻ. Mặt khác lễ hội góp phần giúp mọi người tìm hiểu, thưởng ngoạn các giá trị văn hóa thông qua các di tích đền thờ, lễ hội Vua Mai, phát huy văn hóa truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta.

MC

Bài viết mới